Điều 361 Bộ luật dân sự năm 2005 qui định: bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
–Các bên cũng có thể thoả thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiên nghĩa vụ của mình.
Bên nhận bảo lãnh trong quan hệ bảo lãnh ngân hàng là người có quyền thụ hưởng một món nợ do người được bảo đảm thanh toán từ một nghĩa vụ trong các hợp đồng (chẳng hạn hợp đồng về xây dựng cơ bản, hợp đồng tín dụng, hỵơp đồng mua bán hàng hoá, hợp đồng cung ứng dịch vụ…) hay các nghĩa vụ thanh toán ngoài hợp đồng (nghĩa vụ nộp thuế, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng…)
Quyền và nghĩa vụ của bên nhận bảo lãnh:
Trong mối quan hệ hợp đồng bảo lãnh, khi người nhận bảo lãnh chứng minh được rằng họ là chủ nợ của khách hàng được bảo lãnh, khi đó họ mới thiết lập tư cách là chủ nợ đồng thời của tổ chức tín dụng bảo lãnh. Lúc này họ mới có quyền yêu cầu tổ chức tín dụng bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ thay cho người được bảo lãnh khi người này không thực hiện đúng nghĩa vụ của họ đối với mình.
– Trong bảo lãnh ngân hàng quyền của người nhận bảo lãnh không thể chuyển nhượng cho người thứ ba, tuy nhiên, trường hợp này vẫn có thể xảy ra nếu trong hợp đồng bảo lãnh có quy định trường hợp này, hay có sự đồng ý của ngân hàng bảo lãnh.
– Trong mối quan hệ hợp đồng bảo lãnh với tổ chức tín dụng bảo lãnh, người nhận bảo lãnh phải chứng minh họ là chủ nợ của khách hàng được bảo lãnh, do đó họ mới có thể thiết lập được tư cách là chủ nợ đồng thời của tổ chức tín dụng bảo lãnh. Với tư cách là chủ nợ của khách hàng được bảo lãnh, đồng thời cũng là chủ nợ của tổ chức tín dụng bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh khi muốn yêu cầu tổ chức tín dụng bảo lãnh thưc hiện nghĩa vụ thay cho người được bảo lãnh khi người này không thực hiện đúng nghĩa vụ của họ đối với mình thì bên nhận bảo lãnh phải chứng minh rằng việc đòi tiền của mình là hoàn toàn phù hợp với các điều kiện thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, như đã được ghi nhận trong cam kết bảo lãnh. Đây vốn là nguyên tắc chung đã được thừa nhận từ rất lâu trong thông lệ và tập quán quốc tế về bảo lãnh ngân hàng.